Nhu cầu của con người ngày càng tăng cao nhưng có những cá nhân không đảm bảo đủ về mặt tài chính. Tín dụng là một giải pháp hữu hiệu giúp chúng ta giải quyết nhiều vấn đề liên quan về vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong cuộc sống. Vậy để hiểu rõ hơn về Tín dụng cá nhân mời quý bạn đọc cùng theo dõi bài viết sau đây.

Đang xem: Tín dụng cá nhân là gì

*

1. Khái niệm của tín dụng cá nhân

Theo khoản 14 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010: “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để các tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ tín dụng khác”. Như vậy tín dụng có thể thể hiện dưới các hình thức khác nhau: tín dụng bằng tiền (cho vay), tín dụng bằng tài sản ( cho thuê tài chính), tín dụng bằng chữ tín( bảo lãnh). Tuy nhiên trong hoạt động tín dụng thì cho vay là hoạt động quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất.

Nếu căn cứ vào chủ đề cho vay vốn, tín dụng có thể được chia làm 3 loại: tín dụng doanh nghiệp( tín dụng buôn bán), tín dụng cá nhân( tín dụng bán lẻ) và tín dụng cho các tổ chức tài chính. Trong đó, tín dụng cá nhân là khoản vay nhằm tài trợ cho nhu cầu vay vốn của cá nhân, hộ gia đình. Nhu cầu vốn của cá nhân, hộ gia đình chủ yếu là nhu cầu về cư trú, sửa chữa, xây dựng nhà cửa, nhu cầu mua sắm tiện nghi: ô tô, xe máy… ; nhu cầu chi tiêu hằng ngày; nhu cầu chi đào tạo, y tế giáo dục; nhu cầu phát triển kinh doanh hộ gia đình…

Hiểu ngắn gọn, Tín dụng cá nhân một hình thức cho vay trong các ngân hàng, là việc các khách hàng, cá nhân có nhu cầu vay tín dụng phục vụ trong đời sống để xay nhà du học, mua ô tô, là kinh doanh hay tiêu dùng cơ bản khi cần thiết,…

2. Chủ thể của tín dụng cá nhân:

Chủ thể của hoạt động tín dụng cá nhân bao gồm : bên cho vay là các ngân hàng, các tổ chức tín dụng có nguồn vốn huy động lớn đứng ra làm trung gian và bên vay là các cá nhân nhân có nhu cầu vay vốn để đáp ứng các nhu cầu cần thiết của cuộc sống hay tạo lập nguồn vốn đề kinh doanh trên thị trường,…

3. Đặc điểm của tín dụng cá nhân:

Thứ nhất, tín dụng dựa trên cơ sở lòng tin. Tín dụng xuất phát từ chữ Credit trong tiếng Anh-có nghĩa là lòng tin, sự tin tưởng, tín nhiệm. Có thể nói, trong xã hội xét tại một thời điểm bất kỳ nào đó luôn xảy ra hiện tượng có những người có vốn dư thừa, và những người thiếu hụt vốn tạm thời. Hiện tượng này đòi hỏi phải cân đối giữa các nguồn vốn, từ chỗ thừa vốn thành thiếu vốn. Tuy nhiên, quá trình này chỉ có thể diễn ra nếu bên cần vốn (bên vay) và bên cung cấp vốn (bên cho vay) thực sự tin tưởng lẫn nhau, niềm tin giữa mọi người đóng vai trò quan trọng. Không phải ngẫu nhiên mà các ngân hàng hay tổ chức cho vay lại tự nguyện cho người khác một số tiền lớn của mình khi cho vay. Trước hết, khi phát hành khoản vay ngân hàng, các tổ chức tín dụng nhằm mục đích hưởng lãi trên số tiền vay theo tỷ lệ quy định của pháp luật. 

Ngoài ra lòng tin còn thể hiện ở khả năng chi trả của các cá nhân. Các Ngân hàng, tổ chức tín dụng khi tiến hành cho các cá nhân vay tín dụng họ họ luôn có lòng tin rằng các cá nhân sẽ hoàn trả lại số tiền gốc và lãi đúng thời hạn như đã cam kết. Một người đã để mất lòng tin của mình thì như đối với các trường hợp khất nợ ngân hàng nhiều lần số tiền gốc trồng lãi trong một thời gian dài thì sau này trong cuộc sống việc có những khoảng thời gian khó khăn trong tài tính là gần như chắc chắn và muốn tìm đến ngân hàng để giải quyết nhưng khi không còn lòng tin thì việc vay tín dụng sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy trong tín dụng cá nhân lòng tin là cơ sở để hoạt động tín dụng cá nhân được diễn ra.

Thứ hai, bằng cách kiếm tiền cho người, những người đi vay sẽ giúp cải thiện cuộc sống của họ.

Chúng ta có thể thấy rằng tại thời điểm vay, con người chủ yếu được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống cả về vật chất và tinh thần như: Ví dụ, chi phí sinh hoạt trong một thời gian dài hoặc vốn tự có để đầu tư vào kinh doanh để xây dựng cuộc sống.

Xem thêm:

Thứ ba, đảm bảo tính hoàn trả về thời gian và giá trị : Hoạt động vay tín dụng đối với các cá nhân không phải là vĩnh cửu, không có điểm kết thúc trong hoạt động cho vay tín dụng không kể là cá nhân hay doanh nghiệp tùy từng loại phương thức vay ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn đều có sự thỏa thuận về thời điểm hoàn trả. Nguồn vốn ngân hàng sử dụng để cho vay được lấy từ nguồn vốn huy động; do vậy, tất cả các khoản tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng đều phải có thời hạn, đảm bảo cho ngân hàng có thể hoàn trả vốn huy động. Để xác minh thời hạn cho vay hợp lý, ngân hàng phải căn cứ vào tính chất thời hạn của nguồn vốn của mình và quá trình luân chuyển của đối tượng cho vay. Nếu nguồn vốn của ngân hàng ổn định thì thời hạn cho vay có thể dài hơn; và ngược lại, nếu nguồn vốn của ngân hàng không ổn định và kỳ hạn ngắn, ngân hàng chỉ có thể cho vay với thời hạn ngắn để đảm bảo tính thanh toán. Đồng thời, thời hạn cho vay nhỏ hơn chu kỳ vận động vốn của người đi vay, khi đó đến kỳ trả nợ mà khách hàng vẫn chưa có nguồn vốn để trả, gây khó khăn cho khách hàng. Nhưng nếu thời hạn vay dài hơn chu kì luân chuyển vốn, khách hàng rất có thể sẽ sủ dụng vốn vay không đúng mục đích vay mà ngân hàng khó có thể kiểm soát được, gây nhiều rủi ro cho ngân hàng. Đối với khách hàng cá nhân, thời hạn vay thường ngắn và trung hạn vì các khoản vay thường nhỏ, nhằm trang trải cho các nhu cầu tiêu dùng cần thiết.

Để xác minh thời hạn cho vay hợp lý, ngân hàng phải căn cứ vào tính chất thời hạn của nguồn vốn của mình và quá trình luân chuyển của đối tượng cho vay. Nếu nguồn vốn của ngân hàng ổn định thì thời hạn cho vay có thể dài hơn; và ngược lại, nếu nguồn vốn của ngân hàng không ổn định và kỳ hạn ngắn, ngân hàng chỉ có thể cho vay với thời hạn ngắn để đảm bảo tính thanh toán. Đồng thời, thời hạn cho vay nhỏ hơn chu kỳ vận động vốn của người đi vay, khi đó đến kỳ trả nợ mà khách hàng vẫn chưa có nguồn vốn để trả, gây khó khăn cho khách hàng. Nhưng nếu thời hạn vay dài hơn chu kỳ luân chuyển vốn, khách hàng rất có thể sẽ sử dụng vốn vay không đúng mục đích vay mà ngân hàng khó có thể kiểm soát được, gây nhiều rủi ro cho ngân hàng.

Về giá trị hoàn trả hoạt động vay tín dụng theo nguyên tắc có vay có trả và hoạt động tín dụng cá nhân cũng không ngoại lệ; Khi hết thời sử dụng vốn, các cá nhân sẽ phải hoàn trả lại số tiền đã vay. Trên thực tế, sự hoàn trả này thường có giá trị lớn hơn so với khoản tín dụng ban đầu; khoản tín dụng này được gọi là lãi suất tín dụng. Số tiền mà các cá nhân được ngân hàng, các tổ chức tín dụng cho vay trong khoảng thời gian đó nếu không cho các cá nhân vay thì ngân hàng, tổ chức tín dụng có thể đầu tư vào các lĩnh vực khác thì việc tiền sinh ra tiền cũng là lẽ thường. Chính vì vậy khoản tiền lãi thu được cũng được là hợp lý trong hoạt động tín dụng cá nhân.

Thứ ba, tính thời hạn : Xuất phát từ bản chất của tín dụng là sự tín nhiệm, người cho vay tin tưởng người đi vay sẽ hoàn trả vào một ngày trong tương lai. Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi hết thời gian sử dụng theo thỏa thuận, người đi vay hoàn trả cho người cho vay. Việc tính thời hạn thời gian cho vay phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữ các bên bởi lẽ vay tín dụng cũng là một dạng hợp đồng vì vậy nguyên tắc tự do, ý chí sẽ là chủ yếu. Thời gian hoàn trả giá trị tiền vay sẽ phụ thuộc vào việc các bên lựa chọn cách thức, phương thức nào như là vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn hay dài hạn,… Khi đã đến thời gian do các bên thỏa thuận thì bên vay phải hoàn trả cả gốc và lãi cho bên cho vay.

Xem thêm: Cách Thu Hồi Email Đã Gửi Trên Outlook Và Gmail, Thu Hồi Email Đã Gửi Sai Địa Chỉ Trong Gmail

Thứ tư, tín dụng ẩn chứa nhiều khả năng rủi ro : Khác với tín dụng doanh nghiệp chủ thể đi vay là các doanh nghiệp có trụ sở được đăng ký kinh doanh tại cơ quan nhà nước vì vậy những thông tin được cung cấp bởi các đối tượng đi vay là doanh nghiệp rất là chi tiết và đảm bảo an toàn gần như tuyệt đối trong hoạt động cho vay tín dụng nhưng đối với cá nhân thì khác do sự không cân xứng về thông tin các thông tin được cá nhân là đối tượng đi vay cung cấp không rõ ràng và độ chính xác không cao; không như doanh nghiệp cá nhân là người vì vậy việc di chuyển nhiều nơi, thay đổi liên tục nơi cư trú và không ngoại trừ trường hợp các cá nhân lẩn trốn, không tự nguyện hoàn trả lại khoản tiền đã vay đây sẽ là một khó khăn lớn cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng trong việc thu hồi vốn hay đối với tài sản thế chấp mặc dù khi thế chấp tại ngân hàng có đầy đủ giấy tờ sở hữu nhưng trên thực tế có nhiều tài sản về hình thức có đầy đủ những giấy tờ về sở hữu hợp pháp nhưng vẫn ẩn chứa nhiều tranh chấp khác nhau như đối với đất đai việc cấp đất không có căn cứ pháp luật hay là tranh chấp khác liên quan,… Vấn đề này sẽ ảnh hưởng và tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn so với việc cho các doanh nghiệp vay

Ngoài ra có nhiều trường hợp người đi vay không hiểu rõ hết về hoạt động vay tín dụng. Thực tế cho thấy có nhiều cá nhân đi vay là những người nông thôn, dân tộc thiểu số có những người do chưa hiểu hết về hoạt động cho vay mặc dù đã được phổ biến nhưng vẫn chưa hiểu rõ đối với hoạt động vay tín dụng cá nhân nên đến lúc hoàn trả lại xảy ra tranh chấp khiến ngân hàng mất thời gian và tìm ẩn rủi ro thiếu hụt vốn hoàn lại.

Trên đây là toàn bộ nội dung giới thiệu của chúng tôi về Tín dụng cá nhân cùng một số vấn đề pháp lý liên quan. Trong quá trình tìm hiểu, nếu quý khách hàng có bất kỳ thắc mắc hay quan tâm sử dụng dịch vụ tư vấn vui lòng liên hệ chúng tôi qua các thông tin sau:

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *