Ngày 25 tháng 10 âm lịch, năm 1967, Ngài Ðại Pháp Sư KHOAN TỊNH ngồi thiền trong động Di Lặc, núi Cưu Tiên, dãy Quế Lạc, Công Xã Thượng Dõng Huyện Đức Hóa Tỉnh Phước Kiến, đột nhiên được Bồ Tát Quan Thế Âm tiếp dẫn đi, khiến mất cả tông tích.

Đang xem: Nguyện sanh tây phương cực lạc

Lúc ấy, Pháp Sư được dẫn đến Thế Giới Tây Phương Cực Lạc, tham quan các cảnh giới 9 phẩm hoa sen. Thời gian dường như chừng 1 ngày 1 đêm, nhưng khi về đến nhân gian đã là ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch, năm 1973 chạy ra đã trên 6 năm 5 tháng trôi qua.

Thoạt nghe thì như là vượt ra tri thức thường tình, khó mà lý giải được. Có câu nói: “Trên trời 1 ngày, dưới này vài năm” là vậy, cũng bởi không gian của vũ trụ không giống, khái niệm thời gian cũng có khác, người có chút ít hiểu biết về Phật học, tất lý nhận ra được.

Thế gian lúc ấy không thấy dấu tích Pháp Sư đâu, đổ xô đi tìm, tăng lục cả Chùa, tìm khắp cả núi, hằng trăm cái động, lớn có nhỏ có, vẫn không thấy tông tích của Pháp Sư, thậm chí huy động cả các đội trục vớt, đội cứu nạn bãi biển, cứu nạn thác ghềng vẫn không thấy.

Một số thiện tín nhiệt thành, còn tuôn ra các huyện thành, các chợ Tuyền Châu, chợ Hạ Môn, chợ Phước Châu, chợ Nam Bình kiếm tìm, còn gởi thơ nhờ các tỉnh huyện lân cận như huyện Vĩnh Thái, Huyện Vĩnh Xuân, Đức Hóa, Phước Thanh, lăng xăng cả mấy năm dài mà vẫn không tin tức gì cả.

Thế rồi, mọi người đều nghĩ Pháp Sư đã viên tịch trong lòng thương tiếc vô cùng. Thật ra từ đầu đến cuối, Pháp sư chưa hề rời khỏi động Di Lạc nữa bước. Do được Phật hộ, nhục thể để trong động những sáu bảy năm mà không bị phát hiện, không bị mục hư, cũng không rõ là được dấu ở đâu (rất có thể dấu ở một dạng không gia khác), về điểm nầy có các cư sĩ ở đây xác minh được, như cư sĩ Trịnh Tú Kiên chẳng hạn.

Suốt quá trình dấn bước đến đất Phật Tây Phương Cực Lạc nầy, không thể sánh với bất kỳ một cảnh giới nào trong mộng được. Ngài là một vị tăng đắc đạo, không hề nói chuyện thêu đặt, vọng ngữ, mà cũng chẳng cần vọng ngữ làm gì, hơn nữa, cảnh giới mà Pháp Sư thấy được không hề giống cảnh giới nào của thiền định thấy, mà cả cảnh giới mà thiền định thấy, cũng chẳng nên đem ra tiết lộ, nếu không tam bộ Thiên Long, mà cả Thiên Ma nữa cũng có thể đến quấy nhiễu được.

Đằng nầy Pháp Sư đã nhận chỉ thị của đức Phật A Di Đà và Bồ Tát Quan Thế Âm nên mới công khai đem chuyện mắt thấy tai nghe trong các cảnh giới của chính phẩm hoa sen nơi Thế Giới Tây Phương Cực Lạc mà chi tiết trình bày ra đây. Phàm những người học Phật đều biết, tội đại vọng ngữ phải xuống ngục Vô Gián, khó có ngày ra, vì thế mà những gì Pháp Sư diễn thuật về Thế Giới Cực Lạc mà Ngài thân hành bước tới là chuyện xác thực ngày vạn lần, có tam giới thần tiên, tám bộ Thiên Long làm chứng.

Ngoài cái thế giới ta đang sống, có một thế giới Cực Lạc mà đức Phật nói trong kinh A Di Đà, đều là thực có, Khoan Tịnh Đại Pháp Sư làm một nhân chứng sống về việc ấy. Bút giả cư sĩ Lưu Thế Hoa căn cứ lời kể mà ghi lại…

Lược sử: Khoan Tịnh Đại Pháp Sư

Khoan Tịnh Đại Pháp Sư ra đời lúc 10 giờ mùng 7 tháng 7 năm giáp Tý (1924).

Ngài ra đời trong căn nhà số 140 đại lộ Thành Quan Trấn Đông thuộc huyện Bồ Điền Tỉnh Phước Kiến. Là một hộ cư sĩ Phật giáo họ Phan.

Cái đêm Ngài sinh ấy, chân trời đông tây 2 hướng ánh vàng óng ánh chớp liên hồi khiến cả cõi đất nơi ấy như vàng óng ánh, vinh diệu, nên lấy đó đặt tên ngài là Phan Kim Vinh.

Lúc nhỏ không học, nhưng tư chất thông minh vượt thường, 7 tuổi đã rời nhà tu tập Chùa Giáo Trung, Phước Kiến; 15 tuổi chính thức phủi tóc quy y với thầy Hư Vân lão Hoà Thượng tại chùa Tô, hiệu chùa Nam Hoa, Quảng Đông. Lại thọ chánh nhãn tạng với thầy Hư Vân lão Hoà Thượng tại núi Vân Cư, Giang Tây, là người truyền đăng, đời thứ 48 của Tông Động Vân, từng làm trục trì một số chùa ở Phước Kiến như chùa Đế Bình, chùa Thủy Liên, chùa Tiên Phật, chùa Năng Nhân, chùa Khai Bình, chùa Mạch Tà, chùa Tam Hội.

Lúc trụ trì chùa Tam Hội thuộc huyện Tiên Du, Phước Kiến năm 1980, Ngài bắt đầu tọa thiền từ ngày 23-12 ngồi riết đến ngày 29-12 mới xá, cộng lại cả 6 ngày rưỡi thiền, đã chấn động cả huyện Tiên Du, lúc ấy thiện tín đến quy y với Ngài có hơn 3,000.

Năm 1982, đến New York làm hành cước tăng, tuyên Hội Phật Pháp, đã từng lưu trú lại, làm việc tại Giáo Hội Phật Giáo Bắc Mỹ và được mời làm Hội Trưởng danh dự Giáo Hội Phật Giáo San Phan – Mỹ Châu. Chùa Nhã Na, Chùa Quán Thế Âm v.v… Đúng là một vị nho tăng đắc đạo.

***** Đại Pháp Sư Khoan Tịnh thuyết giảng tại núi Nam Hải Phổ Đà (Tân Gia Ba) vào tháng 4 năm 1987.

Chư vị Pháp Sư, Chư vị Đại Đức, chư vị Cư Sĩ.

Kính chào tất cả chư vị,

Hôm nay chúng ta có đủ Phật duyên cùng hội tụ một chỗ tại đây, cũng là nhân duyên kiếp rồi và quá khứ vô số kiếp về trước. Đó là nhân duyên kiếp rồi và quá khứ nhiều kiếp tập đặng, do đó hôm nay mới có thể gặp mặt nhau tại nơi nầy.

Câu chuyện mà tôi sắp nói đây là quá trình bản thân tôi hành dấn bước đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tôi sẽ trình bày cặn kẽ những cảnh giới, tình hình được thấy được nghe trong thế giới Cực Lạc cùng chư vi..

Tôi sẽ nói thành 5 phần như sau:

1. Tôi đến thế giới Cực Lạc bằng cách nào? Với nhân duyên gì có thể đến nơi ấy được ? Thật ra thì tôi viếng Thế Giới Cực Lạc trước sau vỏn vẹn chừng 20 tiếng đồng hồ trong ý nghĩ tôi ước đoán, thế mà, về tới thế gian này so lại, đã trôi qua hơn 6 năm 5 tháng dài.

2. Trên lộ trình tôi đến thế giới Cực Lạc tuần tự ghé qua địa phương nào, kể thì có đông La Hán, trời Đao Lợi, trời Đâu Suất, rồi đến 3 địa điểm chính của thế giới Cực Lạc, Hạ phẩm Liên Hoa, Trung phẩm Liên Hoa (ghi nhận rằng mỗi phẩm Liên Hoa lại chia làm 3 bậc: Thượng, Trung, Hạ, cho nên hợp thành cửu phẩm Liên Hoa). Tôi sẽ nói cùng chư vị thật cặn kẽ cảnh giới của 3 địa điểm chính ấy như thế nào.

3. Tôi sẽ nói về tình hình vãng sanh vào 9 phẩm Liên Hoa như thế nào, nói cách khác, nghĩa là tôi sẽ nói cách tu trì như thế nào để được công quả như thế nào của chúng sanh trong thế giới ta bà này mà định đoạt sẽ được vãnh sanh vào phẩm nào trong 9 phẩm Liên Hoa ấy và tình hình sinh hoạt thực tế của chúng sanh trong mỗi phẩm Liên Hoa như thế nào. Thí dụ: đặc trưng thân hình, màu sắc, y phục, ăn uống nghỉ ngơi và độ cao, độ lớn của chúng sanh trong từng phẩm Liên Hoa trên ấy như thế nào.

4. Tôi sẽ nói về phương pháp tu trì của chúng sanh trong nước Cực Lạc như thế nào, nói dễ hiểu hơn: Tức là nói chúng sanh của từng phẩm một, tu trì như thế nào để được lên từng phẩm, từ dưới lên trên, lên mãi đến thành Phật đạo.

5. Sẽ trình bày lại lời của chư vị ở trên ấy mà trước này tôi biết được; nhắn nhủ tôi khi trở lại ta bà nầy dặn dò tôi chuyển lời lại chư vị ở ta bà như thế nào.

Xem thêm: Cách Để Xóa Tất Cả Ảnh Trên Facebook Nhanh Chóng (Mới Nhất 2021)

Trên Đường Gặp Kỳ DuyênBồ Tát Quan Âm Dẫn Vào Cảnh Thánh

Ấy là câu chuyện ngày 25 tháng 10 năm 1967.

Hôm ấy tôi đang ngồi thiền trong chùa Mạch Tà Nham (ghi chú: Pháp Sư là trụ trì của chùa này). Đột nhiên, dường như có tiếng ai gọi tên tôi, còn xô tôi về phía trước, lúc ấy, tôi có hơi giống người ngà ngà say, lâng lâng làm sao ấy, cũng chẳng hỏi nguyên do, cứ thế mà bước ra khỏi chùa. Trong ký thức tôi nghĩ: giờ đây phải qua núi Cửu Tiên ở huyện Đức Hoà, tỉnh Phước Kiến dạo chơi (từ chùa Mạch Tà Nham đến núi Cửu Tiên ước chừng 200 cây số) cứ thế tôi bước đi, suốt dọc đường không hề cảm thấy mệt nhọc, cũng không thấy đói bụng, miệng khác thì nốc vài ngụm nước suối, cũng chẳng biết được bao lâu rồi, hầu như không hề ngủ nghỉ qua, chỉ biết rằng lúc ấy đang tạnh ráo không mưa.

Đúng vào lúc đang dấy lên đại cách mạng văn hóa bên Trung Quốc.

Khi tôi đến nơi cách núi Cửu Tiên, huyện Đức Hóa không bao xa, đột nhiên, thần trí tôi tỉnh trở lại, lúc ấy tôi nghe tiếng nói chuyện của nhóm người đi đường, biết được nay là ngày 25 tháng 10 thời kỳ cách mạng văn hóa, nơi nơi loạn lạc dân chúng đợi ban đêm mới ra đường, tôi si như vậy cũng không khác thường. Lúc ấy cũng 3 giờ khuya, trên đường tôi gặp một sư già, cách phục sức y áo giống như tôi vậy, chúng tôi vốn chưa quen biết, giữa đường gặp người đồng đạo, tự nhiên không hẹn mà chắp tay xá nhau thi lễ.

Chúng tôi trao đổi nhau danh tự, vị sư bảo:

– Tôi pháp hiệu Viên Quang, hôm nay chúng ta có duyên hội ngộ, chi bằng cùng đến núi Cửu Tiên dạo chơi được chứ!

Do đi cùng hướng, tôi đồng ý ngay. Thế là vừa đi vừa trò chuyện, suốt câu chuyện dường như vị sư ấy thấu rõ rất nhiều chuyện quá khứ thầm kín của tôi, nói rất nhiều chuyện nhân quả, cũng y như chuyện thần thoại, câu chuyện dẫn hết trong đời này qua đến nguyên nhân tạo tác của đời trước, rồi đời trước nữa, rằng kiếp ấy tôi sanh ở đâu? Ở những nơi nào? Lúc nào? Làm những việc gì, nghe say mê quá, đến nay từng câu từng chữ một, tôi vẫn còn nhớ vanh vách. (Sau này tra cứu lại niên đại ấy, người tên họ ấy, cả nghề nghiệp ấy, phần mộ ấy, nhóm con cái ấy đều đúng cả).

Chân bước theo câu chuyện, bất giác, tới chân núi Cửu Tiên không hay, đỉnh núi này có một động lớn, thờ tượng Di Lạc nên gọi là động Di Lạc là nơi chúng tôi nhắm đến; tôi nghe rất quen thuộc và rành đường lối đến động này. Nhưng mà khi lên đến nửa đường núi, hiện ra trước mắt tôi những cảnh tượng thật khác lạ, con đường đang đi đã này không phải là con đường núi Cửu Tiên trước đây, đằng nầy, đường lối được xây bằng những tảng đá lớn, lấp lánh ánh hào quang, thật lạ, đi đến cuối nhìn lại, đã không còn là động Di Lạc nữa, mà là một vùng trời đất khác rồi. Trước mắt tôi hiện ra ngôi chùa lớn trước nay chưa từng thấy, vô cùng tráng lệ, so với cung điện ở Bắc Kinh, còn hùng vĩ hơn nhiều.

Hai bên ngôi chùa có 2 tòa bảo tháp, đi một lúc chúng tôi đã đến cổng lớn, cổng xây bằng toàn là đá trắng, cửa cổng có tấm hoành phi to, trên ấy có viết mấy chữ, tôi nhìn không biết nghĩa. Trước cổng có bốn vị Hòa Thượng, mình mặc aó tràng đỏ, lưng deo đai vàng óng, tươ”ng trang nghiêm, thấy hai chúng tôi đến, cùng quỳ xuống đảnh lễ nghêng tiếp, tôi vội vàng đáp lễ lại, tôi lấy làm lạ, cách phục sức của Hòa Thượng nơi đây tôi chưa từng thấy. Có hơi giống các vị Lạc Ma tăng, các vị ấy cũng mỉm cười lên tiếng, “Thế là đến rồi, hoan nghêng, hoan nghêng” rồi mời hai tôi vào trong.

Vào cổng, qua mấy cung điện, lạ thật, nhà cửa ở đây đều ánh ra tia sáng, đẹp quá, hùng vĩ quá. Bên trong có một dãy hành lang, hai bên trồng đủ loại kỳ hoa dị thảo, màu sắc khác nhau, đi một lúc đến một tòa đại điện, trên điện có bốn chữ vàng lớn, lấp lánh tia sáng, không phải hoa văn, cũng không phải Anh Văn, tôi nhìn không hiểu mới hỏi Sư Viên Quang về nghĩa bốn chữ ấy, Sư bảo là “Trung Thiên La Hán” tôi thầm nghĩ, đã gọi là Hán, đây chắc phải là cảnh giới đạt được của những vị La Hán. Bước đến nơi đây tôi rờn rợn cảm giác rằng vùng đất này hẳn không còn là thế giới ta bà chúng ta rồi. Đến nay tôi còn nhớ được một chữ còn 3 chữa kia không nhớ ra.

Lúc tôi gặp Sư Viên Quang là 3 giờ khuya, nay đã hừng sáng rồi, bên trong và ngoài điện có vô số người ra vào, với các loại màu da vàng, trắng, đỏ, đen, đều có đó, da vàng chiếm đa số, già, trẻ, trai gái đều có. Quan áo rất lạ, thảy đều có phát hào quang tụ năm tụ ba, có nhóm tập võ nghệ, có nhóm ca sang múa vũ, có nhóm đánh cờ, có nhóm ngồi thiền dưỡng thân, tất cả dù bận việc gì cũng ánh lên nét vui mừng; thấy chúng tôi đến, đều lộ vẻ thắm thiết, mĩm cười gật đầu, nhưng vẫn không nói lời nào.

Vào trong Đại Điện, tôi lại thấy 4 chữ lớn khác, Sư Viên Quan cho biết: đó là 4 chữ ĐẠI HÙNG BỬU ĐIỆN, từ trong có hai vị Hòa Thượng già ra đón chúng tôi. Tôi thấy một vị có râu trắng rất dài, một vị khác cũng già nhưng không có râu, vừa gặp Sư Viên Quang, vội quỳ xuống lạy, hành đại lễ, La Hán ở trung thiên đối với Sư Viên Quang mà kính trọng đến bậc ấy, thiết nghĩ, Ngài chắc là bậc phi phàm lắm vậy.

Lúc họ tiến dẫn chúng tôi vào phòng khách, tôi để ý bốn bên điện, chỉ thấy khói hương lan tỏa, mùi thơm ngào ngạt, mặt đất đều trải bằng những phiến đá trắng bóng loáng. Đặt biệt hơn, trong điện thờ không có một tượng Phật nào, mà phẩm vật cúng dường thì rất nhiều, hoa tươi từng đóa lớn như quả banh, đều tròn ung ủng, các kiểu các dạng đèn treo, màu sắc sặc sỡ, lóng lánh hào quang, vào đến phòng khách cụ Hòa Thượng chuyển hai ly nước từ tay tiểu đồng để mời chúng tôi, người tiểu đồng ấy đầu thắt 2 bím, thân mang áo lục, lưng thắt đai vàng óng, trang phục như đạo đồng, rất dễ thương. Nước trong ly trắng trong mát dịu, tôi uống nửa ly. Sư Viên Quang cũng nâng cốc, uống rồi tinh thần phấn phát, khỏe hẳn người ra, mất hết cái mệt nhọc trong ngày.

Sư Viên Quang nói nhỏ bên tai cự Hòa Thượng cái gì đó, cụ bèn dặn tiểu đồng dẫn tôi đi tắm, tôi thấy một bồn nước bằng đồng trắng đựng đầy nước trong sửa soạn từ lúc nào, tôi rửa mặt và tắm gội, rồi lại được trao cho bộ áo Hòa Thượng màu lam xám, thanh khiết mới toanh. Tắm xong tinh thần thư thái hẳn lên, toi thầm nghĩ: hôm nay tôi nhất định đã vào cảnh Thánh rồi, lòng mừng khẩp khởi khó mà thí dụ cho được.

Về lại phòng khách, tôi vội đến trước Hòa Thượng quỳ lạy 3 lạy, xin được chỉ dạy, tôi hỏi về tương lai của Phật Giáo Trung Quốc ra sao? Vị Hoà Thượng này không nói một tiếng, chỉ thấy nhắc cây bút chấm mực viết trên giấy 8 chữ: PHẬT TỰ TÂM TÁC, GIÁO DO MA CHỦ. Hòa Thượng trao giấy cho tôi, hai tay tôi tiếp nhận, nhưng chẳng hiểu gì về ngụ ý của 8 chữ này, vị Hòa Thượng khác giải thích cho tôi biết, với 8 chữa này để ngang, đứng, đứng ngang, trái phải, phải trái, trên dưới, dưới trên, chữ cuối lại tách ra, đọc thành 36 câu, sẽ hiểu được tình hình Phật Giáo từ nay đến trăm năm sau, nếu mà lại đem 36 câu ấy diễn dịch thành 840 câu, có thể thấu được tiến trình Phật Giáo thế giới từ nay cho đến khi Phật Giáo diệt độ mới thôi. Sư Viên Quang cho biết 840 câu nầy, cần thời cơ chín mùi đã mới công bố được, nay chỉ nên tuyên bố ngầm như vậy, 8 chữ nầy hóa ra 840 câu, mỗi câu đều khác, giải thích tình huống Phật Giáo Trung Quốc sau nầy.

Tôi loay hoay sắp:

– Phật tự tâm tác, giáo do ma chủ

– Phật giáo tự chủ, ma tâm do tác

– Tác tâm tự Phật, chủ do ma giáo v.v…

Nhiều lắm nhưng tôi vẫn không hiểu và chưa chắc chắn cách sắp này là đúng, thiện trí thức nào biết, cứ sắp thử, sắp một hồi, vị Hòa Thượng bảo tôi nên vô phòng nghỉ ít lâu, tiểu đồng dẫn tôi vào phòng, chẳng thấy giường đệm đâu cả, chỉ có hai cái ghế dựa trên trải nhiễu… rồi tôi ngồi lên ghế tĩnh tọa, thoáng cái, cả người tôi bỗng thấy thoải mái, thư thái vô cùng, tôi không còn biết tôi đang ở đâu nữa. Thế rồi nghe tiếng Sư Viên Quang gọi tôi, tôi vội vã đi xuống, chạy ra khỏi phòng.

Sư Viên Quang nói với tôi:

– Bây giờ tôi đưa ông đến Trời Đâu Xuất, đảnh lễ Bồ Tát Di Lặc, và Sư Phụ của ông là Hư Vân Lão Hòa Thượng nhá!

Tôi mừng quýnh:

– A Di Đà Phật hay quá, cám ơn Ngài.

Rời đại điện tôi định giã từ hai vị Hòa Thượng nơi đây, nhưng Sư Viên Quang ngăn lại:

– Không cần, không cần, thì giờ không có bao nhiêu.

Thế là lần nầy tôi đến cung trời Đâu Xuất.

TRÊN TRỜI ĐÂU XUẤT GẶP HƯ VÂN LÃO HÒA THƯỢNG

Trên đường đi, tôi gặp rất nhiều điện vàng, bảo tháp, nguy nga tráng lệ, tất cả đều phát sáng, khiến tôi nhìn không chớp mắt nhưng Sư Viên Quang thôi thúc nói thời giờ eo hẹp, đi cho nhanh lên (mãi sau này tôi mới biết, thời gian trên Thượng giới khác với thời gian chúng ta sống, không nên để luống qua, nếu không về tới ta bà đây chắc cũng lướt qua vài trăm năm, có khi cả ngàn năm không chừng). Hầu hết những con đường đều xây bằng đá tảng lớn trắng, và ẩn hiện ánh hào quang, trên núi hoa thơm cỏ lạ muôn vàn, nương gió hắt lại những mùi thơm ngát trời. Quanh quanh mấy cái eo triền núi, đến một cái vực rất sâu cả mấy chục ngàn thước ẩn hiện phía trước một cây cầu để bước qua bên kia vực, nhưng không thấy đầu cầu và cuối cầu, mây từng cụm là là che phủ, chỉ thấy một đoạn vòng lên cao ở giữa cầu. Tôi thầm nhủ:

– Cái cầu như vậy làm sao qua được đây? Ngay lúc ấy Sư Viên Quang hỏi tôi:

– Hằng ngày ông thường trì chú gì? Kinh gì?

Tôi trả lời:

– Tôi hay trì chú Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa. Sư bảo tốt, thế giờ ông trì chú đi!

Tôi bắt đầu trì chú. Chú Lăng Nghiêm có hơn 3,000 chữ, mới trì có hai ba trăm chữ, cảnh đằng trước tôi hóa ra khác rồi, cây cầu lúc ấy hiện rõ hai đầu cầu nối lại với lại bờ đất, cầu tỏa sắc óng ánh vàng, lóng lánh chói lọi, cả cầu được dựng bằng 7 báu vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ v.v… trông như cầu vồng treo giữa lưng trời vậy, đẹp mắt vô cùng, thành cầu có nhiều cột đèn, đèn bằng hạt châu sáng và thật to, đầu cầu có dựng cổng trên có khắc 5 chữ lớn như 4 chữ ở đại điện đã thấy, nên tôi đoán 5 chữ ấy là “TRUNG THIÊN LA HÁN KIỀU”, qua khỏi cầu, nghỉ lại đôi chút tôi vội hỏi Sư Viên Quang:

– Bạch Sư, tại sao khi chưa niệm chú tôi chẳng thấy hai đầu cầu, niệm rồi lại rõ ra như vậy? Sư rằng:

– Khi chưa niệm chú, bản tánh của ông tức Bản Lai Diện Mục của ông bị nghiệp chướng của tự thân trùng trùng vây chặt, siêu thắt mình lại, áng cả tầm nhìn, không thể thấy tánh cảnh được đâu, sau khi niệm chú do oai lực của chú, nghiệp chướng tức thì tiêu tan nên chẳng bị che khuất, tự tánh thanh tịnh, hiện ra cảnh giới thật của nó, từ mê chuyển tỉnh, nên nói muôn dặm không thấy muôn dặm trời là vậy đó.

Chúng tôi lại bắt đầu đi, vừa đi vừa trì chú, tự nhiên phía trước bước chân hiện ra những hoa sen to, từng cánh sen chiếu ánh sáng xanh lóng lánh như thủy tinh vậy, bước lên hoa sen nâng lốc tôi lên lưng trời giống như cỡi mây lướt gió vậy, chỉ nghe tiếng rít bên tai mà không cảm thấy gió to gì cả, tốc độ bay sánh với máy bay siêu tốc, chỉ thấy cảnh vật chung quanh cứ vùng vụt mà ném lại đằng sau.

Không bao lâu thân tôi nóng dần lên, lúc ấy tôi thấy có một cái cổng to, nếu sánh với Thiên An Môn ở Bắc Kinh thì cổng này hùng vĩ hơn nhiều, những cột to có dáng rồng phượng lóng lánh hào quang, trên chóp mái dạng như cung vua vậy, nhưng toàn một màu bạc óng, toàn cảnh như một cổng thành bằng bạc khối chiếu sáng vô cùng hùng tráng. Bảng cổng có ghi bằng 5 loại văn tự, về Hán văn thì đọc được là NAM THIÊN MÔN, Nam Thiên Môn là trụ xứ của Tứ Đại Thiên Vương. Trong Nam Thiên Môn có rất nhiều người trời đứng thành hai hàng, văn võ hai bên, nhóm văn võ đều mặc trang phục như tướng trong cung vua vậy, nhưng đều tỏa chiếu hào quang, vô cùng oai võ, tất cả đều chắp tay mỉm cười làm lễ nghêng tiếp hai chúng tôi, nhưng chẳng nói một lời. Vào trong thấy một tấm gương lớn, nghe đâu gương này soi thấy nguyên thần, biết được giả thật. Suốt đường vào trong, thấy rất nhiều cảnh lạ, như ráng trời, cụm mây, bông hoa sấm chớp, cứ vùn vụt lướt qua lại, lăng xăng liên tục, bên ngoài các từng mây, thấp thoáng những đình đài, lầu các mũi tháp chập chùng, Sư Viên Quang bảo tôi:

– Đây là từng trên của trụ xứ Tứ Đại Thiên Vương, từng thứ hai của trời Dục Giới, gọi là trời Đao Lợi, là nơi ngự của Ngọc Hoàng Đại Đế, cai quản 32 dung trời bốn phương. Tôi không được nhìn ngắm lâu, cứ thế lướt qua mấy từng trời.

Sư Viên Quang nói tiếp:

– Đây rồi, nơi nầy là trời Đâu Xuất, từng thứ tư trời Dục Giới.

Thoáng chốc, đã đến trước một cửa cổng điện các lớn. Ra đón chúng tôi có hơn 20 người trong đó có một người không xa lạ gì, đó là ân sư truyền giới cho tôi, Hư Vân Lão Hòa Thượng là một trong ba cao tăng Trung Quốc thời cận đại. Còn hai người nữa, mà tôi biết được là Hòa Thượng Diệu Liên và Đại Sư Phước Vinh, họ đều khoác y đỏ, rất hoa lê.. Gặp ân sư tôi vội quỳ xuống đảnh lễ, suýt chút nữa là tôi bật tiếng khóc vì xúc động. Ân Sư hỏi tôi:

– Lúc này con làm sao, trong lòng thanh tịnh không, có còn gì buồn vui xúc động không? Con có biết vị đưa con đến đây là ai không?

Tôi trả lời:

– Bạch Thầy vị ấy là Sư Viên Quan Lão Pháp Sư.

Xem thêm: Top 10 Bài Hát Việt Nam Hay Nhất Mọi Thời Đại, Bài Hát Cảm Đông Nhất Thế Giới

Lúc ấy ân sư thổ lộ cho tôi biết : Vị ấy là vị mà hằng ngày con vẫn niệm Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT. Nghe qua tôi hết hồn, vội quỳ xuống đãnh lễ Sư Viên Quan (Hóa thân của mẹ Quan Âm) thật là có mắt mà chẳng thấy núi Thái Sơn. Trước Bồ Tát Quan Âm, trong khoảnh khắc ấy, không biết nói làm sao cho phải. Người ở trời Đâu Xuất chẳng giống người ở ta bà mình, thân cao hơn ta những 5 hoặc 6 lần, nhưng mà Bồ Tát Quan Âm đành rằng đã đưa tôi đến đây khiến cho tôi hóa ra lớn bằng tầm cỡ trên này. Ân Sư dặn dò tôi:

– Ở thế gian phải cần khổ công tu luyện, nghiệp chướng cần thông qua thử thách mới có thể lần hồi giải trừ được… giải trừ được.Ân sư còn dặn tôi phải xây chùa chiền v.v…

Ở trên này tôi có gặp một số người nữa, trai gái trẻ già đều có, trang phục của họ hao hao giống triều đại nhà Minh.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *