Người Việt Nam mình rất ngại khi nói đến chữ “sex”. Trong đời thường, thử hỏi bất kỳ một người già trẻ lớn bé nào xem họ có biết “sex” nghĩa là gì không? Thử nha và câu trả lời hầu như giống nhau: Là “chuyện ấy”!

Thực ra, ngoài “chuyện ấy” ra, “sex” còn được dịch sang tiếng Việt thành “giới tính”. Một từ tiếng Anh khác là “gender” cũng dịch là “giới tính”. Nhưng sự khác nhau giữa “sex” và “gender” là cốt lõi trong những cuộc tranh luận về nữ quyền và sức khỏe sinh sản.

Đang xem: Giới tính tiếng anh là gì

*

“Sex” refers to the biological and physiological characteristics that define men and women.“Sex” phân biệt một con người là nam hay nữ, trai hay gái, đàn ông hay đàn bà theo những yếu tố sinh học của cơ thể người đó, như bộ phận sinh dục, nhiễm sắc thể, nội tiết tố, và đặc điểm hình thể. Khi một con người được sinh ra, người ta lập tức căn cứ vào bộ phận sinh dục của người đó để xác định trong giấy khai sinh đó là con trai hay con gái. Đó cũng là căn cứ để điền vào các loại đơn từ và giấy tờ hộ tịch sau này, ở mục phái nam hay phái nữ. Đa số người ta sinh ra, như đa số động vật khác, hoặc là cái hoặc là đực, mà sự khác nhau sinh học chủ yếu liên quan đến chức năng duy trì nòi giống, con cái là cá thể có cấu tạo cơ quan sinh dục để cưu mang và sinh sản. Trong nghĩa này, có lẽ “sex” tương đương với “phái tính”.

“Gender” refers to the socially constructed roles, behaviours, activities, and attributes that a given society considers appropriate for men and women. So while your sex as male or female is a biological fact that is the same in any culture, what that sex means in terms of your gender role as a ‘man’ or a ‘woman’ in society can be quite different cross culturally. “Gender” là sự phân biệt nam nữ chủ yếu dựa vào những yếu tố xã hội, vai trò, hành vi, sinh hoạt và các đặc tính mà xã hội đó xem là thích hợp đối với người nam hay người nữ. Văn hóa và xã hội khác nhau tùy địa phương và thay đổi theo thời gian, khi những yếu tố văn hóa và xã hội thay đổi thì vai trò và sự tương quan nam – nữ cũng thay đổi.

Xem thêm:

Ví dụ:

Theo yếu tố sinh học, “sex”: Phân biệt nam nữ, người nữ có các đặc điểm nữ bẩm sinh và các đặc điểm mang tính sinh học ấy tồn tại phát triển theo quy luật tự nhiên. Chẳng hạn, người nữ sinh ra có tử cung, buồng trứng, có sữa khi sinh con. Những đặc điểm này là tự nhiên, không xấu không tốt, không tục tĩu, cũng chẳng thiêng liêng.Theo yếu tố xã hội, “gender”: Phụ nữ hay đàn bà là sản phẩm của xã hội. Chẳng hạn, “vai trò nội trợ” dành cho người nữ, vai trò chiến sĩ là của người nam. Hay đàn bà trong xã hội Trung Hoa cổ xưa “nam trọng nữ khinh”, mấy ngàn năm bị áp bức, trở thành kẻ phụ thuộc vào cha, chồng, con trai. May thì là cái máy đẻ (như nàng Thúy Vân) rủi thì làm đồ giải trí, vật đổi chác của đàn ông (như nàng Thúy Kiều).

Xem thêm: Cách Định Dạng Số Âm Trong Excel Hiển Thị Số Âm / Làm Thế Nào Để

*

Tách gỡ cái “phận đàn bà” ra khỏi “đàn bà” là chuyện khó khăn, phức tạp, vì giữa “sex” và “gender” có những liên quan khăng khít. Đó không chỉ là vấn đề ý thức của phụ nữ, mà là sự tiến hóa và nhận thức của mỗi xã hội.

Ở phương Tây, những người đấu tranh cho nữ quyền không nhằm tạo ra một xã hội không có “sex”, mặc dù thành tựu khoa học ngày nay hứa hẹn khả năng đó. Mục tiêu đấu tranh của họ là một xã hội không kỳ thị “gender”.

Ngoài ra, hướng dẫn gìn giữ sức khỏe giới tính về mặt sinh học “sex” cũng bị chi phối rất lớn bởi những quan niệm về xã hội “gender”. Đề tài này còn rất nhiều điều hấp dẫn… Hẹn hò lần sau mình sẽ bàn thêm!

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *